Immanuel Kant đã viết hai tác phẩm triết học nổi tiếng là The Critique of Pure Reason (Bàn về suy luận thuần tuý) và The Critique of Practical Reason (Bàn về suy luận mang tính thực hành). Chúng ta không thể đọc một cuốn tiểu thuyết như đọc một tác phẩm lý luận triết học; không thể đọc một bài thơ trữ tình như thể đó là một công thức toán học vì giữa văn học giả tưởng và tác phẩm mô tả có những điểm khác nhau. QUY TẮC 2: TRÌNH BÀY SỰ THỐNG NHẤT CỦA TOÀN BỘ NỘI DUNG CUỐN SÁCH TRONG MỘT CÂU ĐƠN HOẶC MỘT ĐOẠN VĂN NGẮN.
Nếu bạn biết các loại câu hỏi mà ai cũng có thể hỏi về bất cứ điều gì thì bạn sẽ rất tinh thông khi tìm vấn đề của tác giả. Họ kết thúc trận đấu mà vẫn giữ nguyên quan điểm ban đầu. Câu đặc trưng của một cuốn sách thực hành thường nói rằng điều gì đó nên làm; hoặc đây là cách đúng đắn để làm việc gì đó; hoặc hướng tới cái đích nào thì tốt hơn; hay chọn phương tiện nào thì phù hợp hơn.
Nếu bạn chọn đọc một cuốn sách trên tầm hiểu biết của mình - một cuốn sách có thể dạy bạn nhiều điều thì bạn đã tiến được một bước dài. Một lập luận có thể được diễn đạt bằng một câu phức, hoặc bằng một số câu trong một đoạn văn, hoặc trùng với một đoạn. Và thỉnh thoảng, các đoạn của cùng một tác giả bình luận về các bài của một tác giả khác lại giúp người đọc hiểu thêm về tác giả có bài được bình luận kia.
Vì thế, nếu bạn đã cố gắng đọc các tác phẩm khoa học kinh điển, bạn sẽ không gặp nhiều khó khăn khi đọc các tác phẩm này. Việc phác thảo cấu trúc một tác phẩm giả tưởng hoàn toàn khác việc phác thảo dàn ý một cuốn sách miêu tả giải thích. Độc giả phải san sẻ một nửa gánh nặng đó để đến với tác giả.
Điều này không hề đơn giản vì các câu hỏi phải được đặt ra theo cách thức và trình tự để vừa giúp ta giải quyết được vấn đề, được trả lời lần lượt bởi từng tác giả. Một cách nói khác về những gì một nhà khoa học tự nhiên làm là nói rằng ông ta đã quy định việc dùng từ của mình, tức là ông ta thông báo cho bạn những thuật ngữ nào cần cho lập luận của ông ấy và ông sẽ sử dụng chúng như thế nào. Các giai đoạn trong quá trình học đọc đã được nhiều nhà nghiên cứu tập trung phân tích.
Đồng thời độc giả phải phân biệt được kiến thức thuần tuý và quan điểm cá nhân, và xem xét những vấn đề liên quan đến kiến thức theo hướng có thể giải quyết được. Bạn nhận thức vấn đề dựa trên những hiểu biết sẵn có. Dù gì đi nữa, ngay lúc đó bạn cũng có thể bỏ sách xuống.
Sự thật không phải như vậy. Chỉ khi nào bạn không đồng tình hoặc không thể đưa ngay ra lời đánh giá phê bình, chúng ta mới cần triển khai một số bước tiếp theo. Bạn phải thực hành đọc, không chỉ đọc cuốn sách này mà còn phải đọc nhiều cuốn khác.
Người ném bóng hay đánh bóng chính là người gửi thông tin theo nghĩa là hành động của họ khiến quả bóng chuyển động. Nếu khoa học xã hội luôn được pha trộn y hệt như vậy thì chúng ta cũng sẽ quen với nó như đã quen với lịch sử. Khi đó có nghĩa là bạn đã tạo nên thói quen thực hiện toàn bộ các thao tác.
Ví dụ từ reading (đọc) trong cuốn The Nature of the Physical World (Bản chất của thế giới vật chất) của tác giả A. Câu đặc trưng của một cuốn sách thực hành thường nói rằng điều gì đó nên làm; hoặc đây là cách đúng đắn để làm việc gì đó; hoặc hướng tới cái đích nào thì tốt hơn; hay chọn phương tiện nào thì phù hợp hơn. Nhưng chúng tôi tin rằng trong vòng mười phút, nếu muốn, chúng tôi và Aristotle có thể đàm luận với nhau về những vấn đề triết học đôi bên cùng quan tâm.
Quy tắc 7: TÌM RA CÁC LẬP LUẬN CƠ BẢN TRONG MỘT CUỐN SÁCH DỰA TRÊN MỐI LIÊN HỆ GIỮA CÁC CÂU. Cấp độ đọc này thường được dạy cho học sinh tiểu học. Bạn chỉ có thể tìm thấy trong sách tham khảo những điều nói chung được mọi người đồng ý.