Sự phân biệt giữa câu hỏi hạng nhất và hạng hai giúp chúng ta giải thích những gì đã xảy ra với triết học trong những năm qua. Nếu các em học thật sự, kiến thức của các em sẽ tăng lên. Trong quá trình đó, chúng tôi nhận thấy nhiều đầu sách cuối cùng được đánh giá là có liên quan lại được tìm thấy một cách ngẫu nhiên hoặc chỉ là do dự đoán.
Tính thống nhất trong tác phẩm Ethics (Đạo đức học) của Aristotle có thể được trình bày như sau: Còn nếu độc giả không phân biệt được kiến thức thật sự và quan điểm cá nhân thì độc giả không có mục đích đọc sách để học hỏi. Cố gắng hết mức có thể để sống trong thế giới của nhân vật đó chứ không phải thế giới của bạn.
Cụ thể, bạn biết cuốn sách có những điều mà bạn muốn đào sâu hay không, có đáng để bạn dành thêm thời gian và tâm trí hay không. Đến đây, bạn chỉ cần hiểu rằng nếu cùng đọc một tài liệu, người này sẽ đọc hiệu quả hơn người kia nhờ đọc tích cực hơn, và thực hiện các hoạt động có liên quan tài tình hơn. Với khái niệm đọc bên ngoài, chúng tôi đề cập tới quá trình đọc sách trong mối liên hệ với những tác phẩm khác.
Ông dùng từ pointer-reading để chỉ việc đọc các con số hay ký hiệu trên các dụng cụ khoa học, tức là sử dụng từ reading theo nghĩa hoàn toàn thông dụng chứ không phải theo nghĩa chuyên môn. Hầu hết mọi người được dạy là phải chú ý đến những điều mình không hiểu; phải tra từ điển khi gặp lại những từ lạ; tìm trong sách tham khảo nếu gặp những nhận định khó hiểu; tìm sự trợ giúp ở phần ghi chú, giải thích của các học giả hay các nguồn hỗ trợ khác… nhưng nếu vội vàng làm những điều này thì chúng chỉ ngăn cản chứ không giúp gì cho việc đọc của chúng ta. Một tác giả có thể không rút ra được kết luận tiềm ẩn trong các bằng chứng hay nguyên lý của mình, làm cho quá trình suy luận của anh ta chưa hoàn thành.
Câu và đoạn văn là các đơn vị ngữ pháp, đồng thời là đơn vị ngôn ngữ. Chân lý, giả định, hay các nguyên lý cơ bản đều cần đề làm chứng cớ chứng minh những nhận định khác. Trong giai đoạn này, trẻ có nhiều mục đích học đọc khác nhau, và đọc nhiều nội dung khác nhau như khoa học, nghiên cứu xã hội, ngôn ngữ, nghệ thuật… Trẻ học được rằng việc đọc không chỉ là điều phải thực hiện ở trường, mà còn là việc người ta có thể tự làm để thoả mãn trí tò mò, hay để mở rộng tầm hiểu biết.
Tuy hiếm khi độc giả hiểu được hoàn toàn nhưng luôn hiểu gần bằng tác giả. Điều đó không có nghĩa là tiếp tục việc đọc theo cách đọc phân tích. Điều này đúng ngay cả với một đại bị kịch.
Nếu chúng ta noi gương họ, chúng ta cũng phải đơn giản như con trẻ khi đặt câu hỏi và thông thái, già dặn khi trả lời. Thứ ba, viết ra những phản ứng của bạn giúp bạn nhớ những suy nghĩ của tác giả. Khi đó có nghĩa là bạn đã tạo nên thói quen thực hiện toàn bộ các thao tác.
Mặc dù tiểu sử và đặc biệt là tự truyện thường tiết lộ rất nhiều thông tin về tác giả, nhưng chúng ta không nên dành quá nhiều thời gian tìm hiểu những bí mật của tác giả đến mức không thể tìm ra những điều họ diễn tả hết sức mộc mạc trong tác phẩm. Khi bị lão hoá, trí tuệ mới mất đi sức mạnh tăng kỹ năng và hiểu biết. Sự phức tạp của cuộc sống người lớn đã cản trở sự thật.
Ta có thể hiểu cuốn sách của tác giả đó, nhưng sẽ không hiểu được sách của những người khác và vấn đề ta nghiên cứu không sáng tỏ thêm được gì. Ở đây chỉ có một thuật ngữ duy nhất chỉ cách đọc mà chúng tôi đề cập đến, nhưng nó được diễn tả theo nhiều cách: bằng một từ đơn lẻ, một cụm từ ngắn và một cụm từ dài. Vì thế, cấp độ đọc sơ cấp được bao hàm trong cấp độ đọc kiểm soát, cũng như cấp độ đọc kiểm soát được bao hàm trong đọc phân tích, và đọc phân tích lại hiện hữu trong đọc đồng chủ đề.
Trong bài thơ ngắn thứ 64, ông đã nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần: Dù ta có chủ động tìm hiểu ý đồ tác giả đến mức nào thì cũng không tránh khỏi xu hướng dễ dàng chấp nhận các ngôn từ được tác giả dùng và cách ông ta sắp xếp vấn đề. Nếu bạn không hiểu bất cứ từ nào trong định nghĩa, bạn sẽ không thể hiểu được ý nghĩa của từ gọi tên vật được định nghĩa.