Nhiều triết gia của thế kỷ trước đã chú tâm một cách nhiệt tình trong vấn đề xóa bỏ những ảo ảnh của tôn giáo, chính trị và xã hội, những ảo ảnh mà ông cha ta đã từng sống chung trong nhiều thế kỷ. Cũng vì lý do này cho nên các dân tộc châu u chỉ có ảnh hưởng không đáng kể tới các dân tộc phương Đông, mặc dù họ có rất nhiều cái ưu việt. Nó đã trở nên bất khả xâm phạm giống như những giáo lý một thời của nhà thờ.
Nó sẽ càng sớm tuân theo bản năng một khi, lẫn trong đám đông, con người trở nên không tên tuổi và từ đó cảm giác chịu trách nhiệm, cái luôn giữ cho các cá nhân khỏi đi quá đà, hoàn toàn biến mất. Thời gian mình nó sẽ tác động vào chúng. Một nhóm khác bao gồm những quan điểm luôn biến đổi nhanh chóng, chúng phần lớn được suy dẫn ra từ các ý tưởng chung, chúng là những quan điểm sinh ra và mất đi trong mỗi một thời đại: Ví dụ như, các học thuyết, nghệ thuật và văn học tiêu biểu cho một thời đại và chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên sinh ra ở đó v.
Họ có xu hướng rõ ràng là không hề phân biệt bất cứ cái gì. Vả lại các chính phủ nghị viện đều mang trong mình nó lý tưởng của các dân tộc văn minh hiện đại. Khoảng cuối thế kỷ 18, do có hiện tượng đập phá các nhà thờ, săn đuổi và chặt đầu giáo sĩ, đàn áp các biểu tượng công giáo nói chung, người ta đã tin rằng như vậy những ý tưởng tôn giáo cũ đã bị tước bỏ hết quyền lực; thế nhưng chỉ vài năm sau, dưới áp lực của đòi hỏi chung, các biểu tượng tôn giáo bị xóa bỏ trước đây đã được khôi phục trở lại[8].
Chúng ta hãy chỉ cần nhớ lại những định kiến tôn giáo, những kiểu định kiến trái ngược hẳn với tính lôgic đơn giản nhất, đã tự bảo tồn một cách ngoan cố trong suốt bao thế kỷ ra sao. Một thí dụ kỳ quặc về điều này cho chúng ta, đó là sự phát triển của một nhóm nhỏ theo chủ nghĩa thực chứng. Những tình cảm này có những đặc trưng rất đơn giản: tôn sùng một đấng được cho là cao cả, khiếp sợ trước quyền lực bên trên, tuân thủ một cách mù quáng mệnh lệnh của quyền lực đó, không có khả năng đánh giá những giáo lý của nó, cố gắng truyền bá sâu rộng những giáo lý đó, có xu hướng coi tất cả những ai không chấp nhận giáo lý đó là kẻ thù.
Một chuỗi những sự nhận diện sai lầm bắt đầu hình thành. Nếu đến một lúc nào đó nó trở thành một sự thật đại chúng, lúc ấy bằng cách nào đó nó sẽ quay trở lại với cội nguồn của mình và sẽ tác động vào tầng lớp bên trên của một dân tộc. Ở đấy tôi đã trình bày, các ý tưởng này đã bám chặt vào tâm hồn của đám đông như thế nào, nó đã thấm vào những tâm hồn đó môt cách khó nhọc ra sao, và sau đấy nó đã đạt đến sức mạnh như thế nào.
Họ quàng vào mình những thứ đó không có nghĩa là không bị trả giá. Để chứng minh nó, người ta phải lục lại rất nhiều những hiện tượng lịch sử và như thế không biết bao nhiêu tập sách cho đủ. Ngày nay các lãnh đạo đã từ bỏ dần dần việc sử dụng bạo lực, chừng nào mà người ta có thể nài xin và làm cho họ yếu mềm.
Ví dụ, sự khác nhau giữa giống người thuộc nhóm La tinh và giống người thuộc nhóm Anglo-Saxon quả thật rõ ràng. Năng lực trí tuệ của họ bị suy giảm, nguồn sinh lực dồi dào cạn kiệt, con người ở vào giai đoạn kết thúc của sự phát triển đã xuất hiện. Sự thất vọng đã xảy ra quá đột ngột và toàn diện, sự lừa đảo đã trở nên quá lớn và sự kinh tởm đã trở thành quá khủng khiếp[13].
Thời gian mình nó sẽ đứng ra làm lại sự cân bằng. Mức độ trung bình (dịch sai, phải là “quan điểm trung bình”) của những người trúng cử đối với một dân tộc nó thể hiện mức độ trung bình của tâm hồn chủng tộc của dân tộc đó, là cái được giữ lại hầu như nguyên vẹn từ thế hệ này qua thế hệ khác. Không bao giờ họ có ý định cai trị ngược với những trí tưởng tượng đó.
Ngôn từ cũng sống động tựa như ý tưởng. Bởi những ý tưởng, chỉ với cấu trúc rất đơn giản mới thâm nhập được vào đám đông, cho nên để có thể trở thành bình dân, dễ gần, chúng phải tự hoàn toàn đổi dạng. Ảnh hưởng của giống nòi trong trường hợp này tuy cũng đã làm cho sự giống nhau đó giảm đi ít nhiều trông thấy, nhưng vẫn không thể ngăn cản được các đặc tính đó hình thành.
Sự quả quyết không sẽ bao giờ là quá mạnh mẽ, giọng nói sẽ không bao giờ bị coi là quá đe dọa. Các dân tộc chưa bao giờ thiếu lãnh đạo, nhưng những người lãnh đạo đó không phải ai cũng có được những niềm tin mạnh mẽ để có thể trở nên thánh tông đồ. Do những tư tưởng của quá khứ, mặc dù đã bị phá vỡ phần lớn, vẫn còn rất mạnh mẽ, và những tư tưởng cần có để thay thế chúng lại đang trong quá trình hình thành, cho nên thời hiện nay là chu kỳ chuyển tiếp và hỗn loạn.